Năm 40 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng xuất quân. Đại hội quân sĩ được tổ chức tại Hát Môn, Trưng Trắc lập đàn tráng, cáo lễ với trời đất, tự xưng là Trưng Nữ Vương, rồi chia quân tiến đánh các nơi.
Thánh Thiên cho quân đánh đuổi quân Hán đến tận thủ phủ Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay), Thái thú Tô Định cùng quân Hán chạy trối chết về nước. Thánh Thiên công chúa cùng các tướng quét sạch quân Hán ra khỏi bờ cõi, tận đến biên giới là hồ Động Đình. Trưng Vương lên ngôi Vua và đặt tên nước là Lĩnh Nam.
Đầu năm 42 sau công nguyên, vua Hán là Quang Vũ sai Phục ba tướng quân Mã Viện cùng Phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí đưa quân tiến đánh Lĩnh Nam, Thánh Thiên công chúa lĩnh ấn “Bình Ngô Đại tướng quân” tức chỉ huy toàn quân chống lại quân Hán. Bà cắt cử các cánh quân chống giữ nơi biên ải.
Mã Viện cùng phó tướng Lưu Long tiến đánh hồ Động Đình, nơi đây có tướng quân Phật Nguyệt chống giữ. Theo một số nhà nghiên cứu thì quân của Phật Nguyệt chỉ có 7 vạn quân chống với 30 vạn của Mã Viện. Tuy nhiên số liệu này chưa được thuyết phục vì vào thời nhà Minh đô hộ thì những nguồn sử liệu của nước ta bị chở về Kim Lăng, bị tiêu hủy và thất lạc mất.
Quân của Mã Viện lúc đầu không sao tiến vào được hồ Động Đình, xác chất thành gò. Mã Viện phải xin thêm viện binh tinh nhuệ mới tiến vào được.
Nhận thấy các chiến thuyền của mình to lớn hơn quân Lĩnh Nam, Mã Viện quyết định hợp quân ở Hợp Phố, nhằm tận dụng đường biển đánh vào quận Giao Chỉ. Tuy nhiên tại Hợp Phố, “Bình Ngô Đại tướng quân” Thánh Thiên đã chờ sẵn.
Cùng với trận chiến hồ Động Đình, trận chiến Hợp Phố là trận đánh nổi tiếng trong sử Việt trước đây. Mã viện 3, 4 lần cho toàn quân tiến đánh nhưng đều đại bại, thây chết ngổn ngang. Không chỉ thế, Thánh Thiên còn tiến đánh khiến Mã Viện phải cho quân lui về Mã Giang.
Bị quân Lĩnh Nam chặn các ngả đường không tiến được, Mã Viện một lần nữa phải phải dâng biểu về triều đình xin thêm tướng giỏi và quân tinh nhuệ giúp sức, trong có viết: “Nam bang có nữ tướng Thánh Thiên dụng binh như thần, trí dũng thiên phương, không sao phục được. Xin bệ hạ phái thêm các tướng giỏi và tiếp thêm quân sĩ sang giúp sức”.
Vua Hán lập tức cho thêm quân tướng tinh nhuệ sang giúp Mã Viện cùng mật truyền: “Nên dùng mưu mà đánh”.
Có thêm quân tinh nhuệ, Mã Viện cũng không dám tiến đánh Thánh Thiên mà chia làm 2 cánh thủy bộ, cánh quân bộ tiến chiếm Thương Ngô rồi cho quân đi ngầm qua Quỷ Môn quan (ải Chi Lăng thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay) lẻn xuống vùng Lục Đầu rồi tiến ngược lên Lãng Bạc, cánh quân thủy bí mật xuống các chiến thuyền lớn ở Hợp Phố rồi theo đường biển đến Lãng Bạc. Hai cánh quân thủy bộ của quân Hán hội tại Lãnh Bạc (thuộc Tiên Du ngày nay).
Hai Bà Trưng cho quân rút đến Cẩm Khê lập căn cứ để chống quân Hán. Những nghiên cứu mới đây cho thấy Cẩm Khê có thể ở thung lũng Suối Vàng, ở chân ngọn núi Vua Bà cao 525m, trong dãy Ba Vì thuộc Hà Tây.
Quân Hán tiến đánh Cẩm Khê, các trận đánh rất ác liệt từ mùa hè năm 42. Đến mùa xuân năm 43 thì Cẩm Khê thất thủ.
Từ mạn Bắc, Thánh Thiên nghe tin Cẩm Khê thất thủ liền đưa quân về tiếp ứng nhưng không kịp, liền đưa quân đóng ở sông Nhật Đức (tức sông Thương ngày nay).
Tại mặt trận Cấm Khê, Thánh Thiên Công chúa, chức Bình Ngô Đại
tướng quân, một ngày chém 100 quân giặc. Nhưng quân ta chỉ còn hơn 200 người.
Thánh Thiên rút về thành Ngọc Lâm. Quân Hán tiến đánh Ngọc Lâm, trong trận giao tranh ác liệt, bị bao vây tứ phía,Thánh Thiên cùng binh sĩ
giao chiến với quân Hán, chém 10 tướng, nhưng sức kiệt, Thánh Thiên chạy đến
sông Nhật Đức và nhảy xuống sông tuẫn tiết. tại bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử, là một bến của con sông nhỏ Đa Mai) thuộc địa phận làng Ngọc Lâm ngày nay.
Cảm phục trước khí tiết của Thánh Thiên, người dân làng Ngọc Lâm đã lập miếu thờ ở bên bến Ngọc.
Cổng đền Ngọc Lâm
Điện thờ đền Ngọc Lâm
Đền Ngọc Lâm – nơi thờ Thánh Thiên công chúa. (Ảnh từ ditichlichsuvanhoa.com)
Về sau ngôi miếu này được xây dựng khang trang thành đền Ngọc Lâm, hiện trong Đền vẫn còn câu đối ca ngợi Bình Ngô Đại tướng quân:
Phiên âm Hán Việt:
Đông hải chung anh, thiên vị Trưng triều sinh nữ tướng,
Bắc nhung kinh phách, nhân ư Ngọc chử ngưỡng thần uy.
Nghĩa là:
Nhân khí bể Đông, trời giúp nhà Trưng sinh nữ tướng,
Kinh hồn giặc Bắc, người nơi bến Ngọc ngưỡng thần uy.
Trong dân gian có lưu truyền bài thơ về Đại tướng quân Thánh Thiên:
Phiên âm Hán-Việt:
Thiên địa sinh ngô nữ tử thân
Trung chi ư quốc, hiếu ư thân
Càn khôn bất phụ tang bồng chí
Khả miễn tam quân quốc sự cần
Nghĩa là:
Trời đất sinh ta thân con gái
Trung lòng với nước, hiếu mẹ cha
Trời đất chẳng phụ người có chí
Chẳng bỏ việc quân, việc nước cần
Hàng năm cứ vào ngày 11 tháng 2 âm lịch (ngày sinh của Thánh Thiên), đền Ngọc Lâm có tổ chức lễ hội lớn để tưởng nhớ đến nữ Đại tướng quân.
Ths Nguyễn Thy Nga (tổng hợp)